Công đoàn Việt Nam cần phải làm gì khi VN tham gia các hiệp định FTA đời mới như CPTPP?

Cơ hội khi Việt Nam tham gia CTTPP
CTTPP được coi là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu thế kỷ 21, gồm 30 chương, đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới, như: thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…
Kinh tế Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn khi CTTPP- có phạm vi ảnh hưởng tới 40% GDP toàn cầu, được ký. Việt Nam sẽ có thị trường rộng hơn; GDP có thể tăng thêm 8 đến 10% đến năm 2030, thậm chí còn nhiều hơn. Đây là cú hích lớn cho Việt Nam nhưng cũng đem lại áp lực cho nhà sản xuất trong nước. Họ phải cạnh tranh quyết liệt hơn, nhưng điều này sẽ thúc đẩy năng suất lao động, rất tốt cho Việt Nam trong tăng trưởng dài hạn.
Tham gia vào CTTPP, Việt Nam có nhiều cơ hội và thuận lợi cơ bản, đó là: Mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường xuất khẩu nông sản. Việt Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Điều quan trọng nhất là, thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ giảm xuống 0%, đây thực sự là cú huých mạnh cho xuất khẩu, tác động tích cực đến thu nhập của người dân, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của VN.
Tham gia CTTPP sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới. Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn.
Dòng vốn từ nhiều nước thành viên CTTPP có trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Mức tăng đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác các lợi thế, tiềm năng về nông nghiệp.
Gia nhập CPTPP, Việt Nam sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước thành viên, nhằm hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất trên phạm vi toàn cầu…
Thách thức khi Việt Nam tham gia CTTPP
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội lớn nêu trên, CTTPP cũng đặt ra nhiều thách thức lớn đối với kinh tế Việt Nam, đó là:
Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển ở mức thấp nhất trong các nước thành viên của CTTPP: hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chất lượng nguồn nhân lực thấp; thể chế kinh tế; thực thi pháp luật ở nước ta còn nhiều bất cập; năng lực cạnh tranh còn yếu kém.
Doanh nghiệp trong nước dễ mất thị phần thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mua sắm CP, phải chia sẻ lợi ích cho doanh nghiệp FDI, làm giảm việc làm, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nảy sinh các hệ lụy về chính trị, văn hóa, xã hội.
Về thương mại, hàng hóa: sức ép cạnh tranh khi thuế về 0% ảnh hưởng lớn đến 1 số mặt hàng trọng yếu, truyền thống của VN như: thịt lợn, gà, sữa, đậu tương, ngô, giấy, thép, ô tô
Thu ngân sách nhà nước cũng sẽ bị giảm đáng kể, nhất là giảm thu thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng (bánh kẹo, đồ trang sức, rượu, thuốc lá…).
Thách thức về xã hội: Trước khi tham gia CTTPP, nhiều doanh nghiệp dựa vào bao cấp của nhà nước, nên các DN công nghệ lạc hậu sẽ gặp khó khăn, phá sản, dẫn đến thất nghiệp.
Khi VN gia nhập CTTPP còn có thách thức nữa, đó là hàng rào pháp lý: Phải sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật VN để phù hợp với Hiệp định TPP, trong đó có tới 34 văn bản (10 luật, 22 Nghị định, 2 Quyết định của Thủ tướng chính phủ có liên quan); đồng thời Nhà nước ta sẽ phải xem xét, ban hành mới 9 văn bản quy pham pháp luật (trong đó có 01 bộ luật; 8 Nghị định) liên quan đến thực thi Hiệp định TPP.
Vì sao lại đưa vấn đề lao động vào các hiệp định thương mại tự do FTA?
Những lý do chủ yếu có thể liệt kê sau đây:
Toàn cầu hóa quyền lợi của người lao động: NLĐ trực tiếp làm ra hàng hóa, dịch vụ trong thương mại quốc tế nên phải được hưởng lợi, được chia sẻ thành quả. Đây là cách tiếp cận của FTA thế hệ mới và trở thành xu thế toàn cầu.
Bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại và dịch vụ, hàng hóa.
Những tiêu chuẩn lao động quốc tế được đề cập trong Hiệp định CTTPP chính là các tiêu chuẩn lao động cơ bản được nêu tại Tuyên bố 1998 của ILO gồm:
Quyền thành lập nghiệp đoàn, Quyền tự do hiệp hội và Quyền Thương lượng tập thể;
Xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc;
Xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em;
Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc
Những nội dung cơ bản liên quan đến công đoàn trong Hiệp định CTTPP:
Cho phép người lao động làm việc trong một doanh nghiệp được thành lập/gia nhập/hoạt động/liên kết tổ chức đại diện của NLĐ (nghiệp đoàn) ở cấp cơ sở theo sự lựa chọn của họ. Để hoạt động, tổ chức này hoặc gia nhập vào Tổng Liên đoàn Lao động VN hoặc đăng ký hoạt động độc lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (do Chính phủ quy định) tùy theo sự lựa chọn của tổ chức đó.
Các tổ chức nghiệp đoàn độc lập này được quyền ngang bằng với Công đoàn cơ sở thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động VN.
Tổ chức nghiệp đoàn độc lập này có thể yêu cầu và nhận sự trợ giúp kỹ thuật và đào tạo từ các tổ chức hoạt động về lao động đang hoạt động hợp pháp tại VN.
Lộ trình: Chậm nhất từ 5 đến 7 năm; kể từ khi CTTPP có hiệu lực; các tổ chức nghiệp đoàn có thể gia nhập/ hoặc thành lập tổ chức của NLĐ ở cấp cao hơn như: cấp ngành, cấp vùng lãnh thổ theo đúng trình tự đăng ký được pháp luật quy định.
Những nội dung mới liên quan đến Quyền Lao Động ở Việt Nam:
Quyền Đình công: Hiện tại Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép đình công trong các doanh nghiệp; đình công chỉ được thực hiện với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích; CTTPP sẽ cho phép đình công cấp ngành, đình công hưởng ứng và có thể có đình công “phản đối chính sách kinh tế - xã hội”.
Lao động cưỡng bức: Pháp luật Lao động VN: Khoản 10, Điều 3 Bộ Luật lao động; định nghĩa Lao động cưỡng bức phù hợp C.29; Cưỡng bức lao động đã bị cấm hoàn toàn (Khoản 3 Điều 8- Bộ Luật Lao động 2012). CTTPP: Bổ sung "lao động gán nợ" là 1 hình thức của Lao động cưỡng bức: "việc NLĐ vay hoặc ứng trước tiền lương từ người sử dụng lao động, bù lại NLĐ cam kết trả bằng sức lao động của mình. Đồng thời CTTPP cũng khép tội hình sự đối với hành vi khai thác trái phép Lao động cưỡng bức
Công việc không sử dụng lao động nữ (Điều 160 - Bộ Luật Lao động 2012); Pháp luật lao động VN: Tiếp nối thực tiễn bộ Luật lao động cũ, Bộ luật lao động mới (2019) sửa đổi cũng cấm sử dụng lao động nữ trong một số công việc. CTTPP: xóa bỏ quy định cấm sử dụng lao động nữ trong hầm mỏ và dưới nước theo đề xuất của Uỷ ban chuyên gia của ILO (theo CƯ số 45).
Những thách thức với tổ chức công đoàn nhà nước khi VN cam kết thực thi Hiệp định CTTPP
Đây là lần đầu tiên vấn đề “đa công đoàn” được quy định và áp dụng tại Việt Nam. Khi thực hiện sẽ làm thay đổi cơ bản nhận thức, nguyên tắc tổ chức, hoạt động, giá trị cốt lõi, truyền thống của tổ chức công đoàn đã được hình thành và khẳng định trong thực tế hơn 80 năm. Vì vậy, những cam kết trong CTTPP về lao động, công đoàn là những thách thức hết sức lớn đối với Công đoàn Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Tổ chức nghiệp đoàn độc lập không phải thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm chính trị, mà chỉ tập trung chủ yếu vào việc chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền lợi của NLĐ. Trong khi đó công đoàn VN đang phải thực hiện nhiệm vụ của tổ chức chính trị- xã hội… nên nguồn lực bị phân tán, thiếu cơ chế chủ động trong tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, cán bộ công đoàn; dẫn đến hệ lụy công đoàn dễ ngày càng xa rời công nhân.
Nếu tổ chức công đoàn VN không nhanh chóng đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, thì rất dễ xảy ra “dòng chảy” đoàn viên công đoàn - NLĐ từ các tổ chức công đoàn VN sang tổ chức nghiệp đoàn độc lập mới được thành lập.
Nguồn lực vật chất đảm bảo cho hoạt động của tổ chức công đoàn VN có nguy cơ giảm sút mạnh, nguồn tài chính của các cấp công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao động VN sẽ bị giảm mạnh (đoàn phí và kinh phí Công đoàn).
Hệ thống công đoàn VN sẽ gặp bất lợi trong việc cạnh tranh, thu hút NLĐ và làm giảm số lượng NLĐ gia nhập tổ chức của hệ thống công đoàn VN.
Tổ chức Công đoàn Việt Nam cần phải làm gì cho phù hợp với các hiệp định thương mại tự do FTA thế hệ mới?
Đổi mới nhận thức: Công đoàn không phải là công cụ của nhà nước để quản lý NLĐ.
Đổi mới tư duy: Công đoàn không phải là công cụ của giới chủ nhân để gò ép công nhân.
Đổi mới vị trí vai trò: Công đoàn không phải là gạch nối giữa nhà nước với chủ nhân. Công đoàn phải đứng về phía công nhân trong mọi tình huống.
Đổi mới phương thức hoạt động: Công đoàn không nhận kinh phí từ giới chủ doanh nghiệp lẫn từ ngân sách nhà nước để tránh mọi chi phối.
Đổi mới nội dung hoạt động: Công đoàn không cần chăm lo nghĩa vụ chính trị. Nên tập trung thực hiện những nội dung về các vấn đề quan hệ lao động, các hoạt động thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.
Đổi mới phương thức kiện toàn tổ chức bộ máy của cơ quan công đoàn cấp trên cơ sở trở lên theo hướng tinh gọn, tích cực, phù hợp, khách quan với tình hình, nhiệm vụ mới.
Đổi mới công tác cán bộ công đoàn toàn hệ thống: Nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động công đoàn theo hướng tuân thủ các hiệp định thương mại tự do FTA thế hệ mới mà nhà nước VN đã cam kết.